Quan ngại tình trạng tiếp tục ban hành “giấy phép con”
(Chinhphu.vn) - Việc tiếp tục soạn thảo, ban hành Thông tư quy định về điều kiện kinh doanh là trái thẩm quyền, có nguy cơ gây hại nghiêm trọng đến hiệu lực một số nội dung của Luật Đầu tư và làm suy giảm niềm tin của cộng đồng DN về hiệu lực, kết quả cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh thời gian qua.
![]() |
Ảnh minh họa |
Báo cáo của Bộ KH&ĐT trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 9/2015 về kết quả 6 tháng thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP đã nêu quan ngại đặc biệt về vấn đề này.
Bộ KH&ĐT cho biết theo quy định của Luật Đầu tư 2014, có 3.299/6.475 điều kiện kinh doanh sẽ đương nhiên bị bãi bỏ và hết hiệu lực thi hành kể từ 1/7/2016. Tuy nhiên, việc thực hiện rà soát, đánh giá quy định của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, Báo cáo đề xuất phương án sửa đổi bổ sung của các bộ, ngành chưa có kết quả rõ ràng.
Kiểm tra chuyên ngành trùng lắp, chồng chéo
DN đánh giá trong hoạt động quản lý chuyên ngành xuất nhập khẩu, thủ tục chưa có chuyển biến đáng kể (trừ quy định về hồ sơ kiểm dịch thực vật đã giảm khoảng 60%). Kết quả khảo sát tại 5 chi cục hải quan lớn của các tỉnh, thành phố gồm Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Bình Dương cho thấy tỉ lệ các lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành không giảm so với năm 2014, chiếm 30-35% tổng số lô hàng nhập khẩu.
Hiện có 5/10 bộ triển khai một số hoạt động theo hướng cải cách về nội dung thủ tục và phương thức thực hiện quản lý chuyên ngành theo yêu cầu của Nghị quyết 19.
Theo nhận định của Bộ KH&ĐT, thực tế còn rất nhiều vướng mắc trong quản lý chuyên ngành. Cụ thể, phạm vi mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành quá rộng. Tình trạng một mặt hàng chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định khác nhau, thuộc thẩm quyền của nhiều đơn vị cùng một bộ, hoặc của nhiều bộ khác nhau dẫn đến kiểm tra trùng lặp. Điển hình như mặt hàng dấm vừa phải xin giấy phép nhập khẩu tiền chất, vừa phải khai báo hóa chất, vừa kiểm dịch thực vật, vừa kiểm tra an toàn thực phẩm…
“Kiểm tra chuyên ngành nhiều quá mức cần thiết theo kiểu ‘thà nhầm còn hơn bỏ sót’ trong khi theo kết quả kiểm tra cho thấy chỉ khoảng dưới 1% số trường hợp không đạt yêu cầu”, Báo cáo viết.
Đáng chú ý, một số cơ quan quản lý chuyên ngành đang tạo ra rào cản kỹ thuật đối với mặt hàng xuất khẩu, thậm chí đối với cả mặt hàng mà thị trường nhập khẩu không yêu cầu. Đơn cử từ 1/1/2015, cơ quan kiểm dịch thực vật yêu cầu kiểm dịch đối với hạt điều, tinh bột sắn, dăm gỗ, cà phê… là những mặt hàng mà nước nhập khẩu không yêu cầu phải kiểm dịch trước khi xuất khẩu.
Cùng với đó là tình trạng nhiều mặt hàng thực chất không kiểm tra gì mà vẫn cấp chứng nhận. Ví dụ như men bia không thể mở ra được ở môi trường bên ngoài để lấy mẫu kiểm tra hoặc không thể cắt vải bọc của chiếc ghế ra để kiểm tra fomaldehyte.
Bất cập trong cải cách thủ tục hải quan
Thực hiện Luật Hải quan 2014 và Nghị quyết 19, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan đã bãi bỏ 14 TTHC, đơn giản hóa 41 thủ tục khác; thực hiện chế độ ưu tiên thủ tục hải quan cho 38 DN; tích cực điện tử hóa trong thực hiện thủ tục hải quan.
Những cải cách về thủ tục hải quan được DN đánh giá cao. Bên cạnh đó, báo cáo của Bộ KH&ĐT cũng nêu lên một số bất cập cần sớm giải quyết.
Đó là trong khi thủ tục kiểm tra hồ hơ, hàng hóa đã áp dụng quản lý rủi ro thì thủ tục giám sát lại đang áp dụng với tất cả các lô hàng và thực hiện theo phương thức thủ công.
Trong áp dụng quản lý rủi ro, mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành (kiểm dịch, kiểm tra chất lượng, an toàn thực phẩm…) đều bị phân vào luồng vàng, luồng đỏ dù DN nhập khẩu, xuất khẩu chấp hành pháp luật tốt. Đáng chú ý, những nhóm hàng khuyến khích xuất khẩu (nông sản, thủy sản…) có tỉ lệ luồng vàng, luồng đỏ khá cao.
Hiện tượng áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các đơn vị, công chức hải quan còn khá phổ biến. Vẫn còn tình trạng cán bộ hải quan yêu cầu nộp thêm các giấy tờ không có trong quy định; thủ tục kiểm tra thực tế hàng hóa rất rườm rà, phức tạp, nhiều công đoạn, nhiều bộ phận; thực hiện các quy định một cách máy móc.
![]() |
Ảnh minh họa |
Cải cách thuế vượt chỉ tiêu, BHXH khó đạt
Theo Bộ Tài chính, trong 2 năm qua, những cải cách về chính sách và TTHC thuế đã giảm 420 giờ (từ 537 giờ/năm xuống còn 117 giờ/năm). Tính đến ngày 24/9, đã có 98% DN thực hiện khai thuế điện tử ổn định; 85% DN đăng ký nộp thuế điện tử và 71,3% DN nộp thuế điện tử tại 33 ngân hàng.
Mặc dù hầu hết các DN đánh giá cao những nỗ lực cải cách của cơ quan thuế nhưng thời gian nộp thuế thực tế chỉ giảm khoảng 20% so với báo cáo của Bộ Tài chính. Sự khác biệt này là do DN đánh giá thời gian thực hiện các TTHC thuế trên nhiều khía cạnh, còn Bộ Tài chính tính toán dựa trên thay đổi văn bản chính sách theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới. Bên cạnh đó, ứng dụng CNTT thay đổi chậm hơn, không theo kịp với thay đổi chính sách gây khó khăn trong quá trình thực thi và tạo rủi ro cho cả người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế; với cùng một chính sách nhưng thực thi ở địa phương không đồng bộ, cơ quan thuế khác nhau thực hiện khác nhau.
Chưa kể, thời gian qua, chính sách thuế thay đổi liên tục và khá nhanh, thời gian từ khi ban hành tới khi có hiệu lực ngắn, công tác tập huấn còn hạn chế dẫn tới DN không kịp cập nhật và không đủ thời gian điều chỉnh hoạt động kinh doanh.
Trong lĩnh vực BHXH, những cải cách về cả phần thu lẫn phần chi trả BHXH đã giúp giảm khoảng 200 giờ làm thủ tục BHXH trong 2 năm qua, xuống còn 135 giờ/năm. Tuy nhiên so với chỉ tiêu giảm xuống còn 49,5 giờ/năm vào cuối năm 2015 như Nghị quyết 19 đề ra thì vẫn còn khoảng cách không nhỏ.
Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục cải cách TTHC, giữa tháng 9/2015, BHXH đã ký hợp đồng với 4 DN CNTT nhằm triển khai hiệu quả công tác giao dịch điện tử trong thực hiện thủ tục tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp và cấp sổ BHXH, thẻ BHYT.
Đánh giá chung của Bộ KH&ĐT cho thấy lĩnh vực "khởi sự kinh doanh" và "bảo vệ nhà đầu tư" đã đạt chỉ tiêu theo yêu cầu của Nghị quyết 19, đồng thời có sự cải thiện tích cực trong lĩnh vực thuế, hải quan, BHXH dù chưa đạt được mục tiêu đề ra, còn lại phần lớn các chỉ tiêu khác (tiếp cận điện năng, cấp phép xây dựng, giải quyết tranh chấp hợp đồng, phá sản DN…) rất khó đạt được vào cuối năm nay.
Trong 11 đề xuất, kiến nghị được nêu trong báo cáo, Bộ KH&ĐT đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm của các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố phải trực tiếp chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát tiến độ và kết quả thực thi các giải pháp, nhiệm vụ theo yêu cầu của Nghị quyết 19; có giải pháp xử lý phù hợp, kịp thời, linh hoạt; kiến nghị, đề xuất những giải pháp chỉ đạo, điều hành hiệu quả.
Bởi thực tế cho thấy những ngành, địa phương mà người đứng đầu sát sao chỉ đạo, đôn đốc thực hiện thì thực hiện tốt các giải pháp và đạt được kết quả như Nghị quyết 19 đề ra và ngược lại thì gần như việc triển khai chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra không có chuyển biến đáng kể.
Đình Nam