Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
(Chinhphu.vn) – Thông cáo báo chí của Văn phòng Chính phủ về thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 40/2018/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, trong đó quy định điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
Cụ thể, tổ chức đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp phải đáp ứng 7 điều kiện:
1- Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam theo quy định của pháp luật và chưa từng bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
2- Có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên.
3- Thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, chủ sở hữu đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên, cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không bao gồm tổ chức hoặc cá nhân từng giữ một trong các chức vụ nêu trên tại doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và Nghị định này.
4- Ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
5- Có mẫu hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, quy tắc hoạt động, kế hoạch trả thưởng, chương trình đào tạo cơ bản rõ ràng, minh bạch và phù hợp với quy định của Nghị định này.
6- Có hệ thống công nghệ thông tin quản lý mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp, trang thông tin điện tử để cung cấp thông tin về doanh nghiệp và hoạt động bán hàng đa cấp của doanh nghiệp.
7- Có hệ thống thông tin liên lạc để tiếp nhận, giải quyết thắc mắc, khiếu nại của người tham gia bán hàng đa cấp.
Có 3 trường hợp chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp: 1- Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hết hiệu lực mà không được gia hạn; 2- Doanh nghiệp tự chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp; 3- Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi.
Đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương
Nghị định cũng quy định cụ thể quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương, trong đó, doanh nghiệp bán hàng đa cấp được coi là có hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương nếu thuộc một trong các trường hợp: 1- Doanh nghiệp có trụ sở chính, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện có thực hiện chức năng liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương; doanh nghiệp tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo về bán hàng đa cấp tại địa phương; doanh nghiệp có người tham gia bán hàng đa cấp cư trú (thường trú hoặc tạm trú trong trường hợp không cư trú tại nơi thường trú) hoặc thực hiện hoạt động tiếp thị, bán hàng theo phương thức đa cấp tại địa phương.
Doanh nghiệp hoạt động bán hàng đa cấp có trách nhiệm thực hiện thủ tục đăng ký tại Sở Công Thương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và chỉ được phép tổ chức hoạt động bán hàng đa cấp sau khi có xác nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bằng văn bản của Sở Công Thương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đó.
Trường hợp không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại địa phương, doanh nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm ủy quyền cho một cá nhân cư trú tại địa phương làm người đại diện tại địa phương để thay mặt doanh nghiệp làm việc với các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương đó.
Doanh nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm lưu trữ, xuất trình hồ sơ, tài liệu liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương theo yêu cầu của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 2/5/2018.
Quy định thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 30/2018/NĐ-CP quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự.
Nghị định quy định rõ thành lập Hội đồng định giá theo vụ việc và thành lập Hội đồng định giá thường xuyên.
Về thành lập Hội đồng định giá theo vụ việc, Nghị định quy định Hội đồng định giá theo vụ việc được thành lập ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp huyện); ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh); ở Trung ương; Hội đồng định giá theo vụ việc cấp huyện do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá tài sản khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Hội đồng định giá theo vụ việc cấp tỉnh do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá các loại tài sản khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc thực hiện định giá lại trong các trường hợp theo quy định.
Hội đồng định giá theo vụ việc ở Trung ương do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực về tài sản cần định giá theo quy định của pháp luật quyết định thành lập để thực hiện định giá lại trong các trường hợp theo quy định.
Trường hợp pháp luật không quy định cụ thể cơ quan thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực về tài sản cần định giá, Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định thành lập Hội đồng định giá tài sản; thành phần, hoạt động, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá theo vụ việc, quyền và nghĩa vụ của thành viên và Chủ tịch Hội đồng định giá theo vụ việc thực hiện theo các quy định.
Về thành lập Hội đồng định giá thường xuyên, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, Chủ tịch UBND cấp huyện và cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản.
Hội đồng định giá thường xuyên cấp huyện do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá tài sản khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Hội đồng định giá thường xuyên cấp tỉnh do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan chuyên môn về lĩnh vực tài chính cùng cấp để định giá khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và thực hiện định giá lại trong các trường hợp theo quy định.
Quyết định thành lập Hội đồng định giá thường xuyên được gửi đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để cơ quan này gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản theo quy định. Thành phần, hoạt động, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá thường xuyên, quyền và nghĩa vụ của thành viên và Chủ tịch Hội đồng định giá thường xuyên thực hiện theo quy định.
Đối với cùng một tài sản được cơ quan có thẩm quyền trưng cầu định giá, trường hợp Hội đồng định giá thường xuyên đã được thành lập để tiến hành định giá đối với tài sản này thì không thành lập Hội đồng định giá theo vụ việc.
Hội đồng định giá có tối thiểu 3 thành viên
Nghị định cũng quy định cụ thể thành phần của Hội đồng định giá tài sản. Theo đó, thành phần của Hội đồng định giá cấp huyện bao gồm: Một lãnh đạo của cơ quan chuyên môn cấp huyện về lĩnh vực tài chính là Chủ tịch Hội đồng; một chuyên viên của cơ quan chuyên môn cấp huyện về lĩnh vực tài chính là thành viên thường trực Hội đồng; đại diện các cơ quan, tổ chức chuyên môn liên quan đến tài sản cần định giá là thành viên Hội đồng. Căn cứ vào yêu cầu định giá tài sản, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định các thành viên phù hợp với đặc điểm của tài sản cần định giá.
Thành phần của Hội đồng định giá cấp tỉnh bao gồm: Một lãnh đạo của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh về lĩnh vực tài chính là Chủ tịch Hội đồng; một lãnh đạo cấp phòng của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh về lĩnh vực tài chính là thành viên Thường trực Hội đồng; đại diện các cơ quan, tổ chức chuyên môn liên quan đến tài sản cần định giá là thành viên Hội đồng. Căn cứ vào yêu cầu định giá tài sản, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định các thành viên phù hợp với đặc điểm của tài sản cần định giá.
Thành phần của Hội đồng định giá ở Trung ương bao gồm: Một lãnh đạo bộ, cơ quan ngang bộ hoặc lãnh đạo cơ quan chuyên môn được ủy quyền của bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực về tài sản cần định giá theo quy định của pháp luật là Chủ tịch Hội đồng; một lãnh đạo cơ quan chuyên môn thuộc bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực về tài sản cần định giá theo quy định của pháp luật là thành viên Thường trực Hội đồng; đại diện các cơ quan, tổ chức chuyên môn liên quan đến tài sản cần định giá là thành viên của Hội đồng. Căn cứ vào yêu cầu định giá tài sản, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực về tài sản cần định giá quyết định các thành viên phù hợp với đặc điểm của tài sản cần định giá cho từng vụ việc.
Số lượng thành viên của Hội đồng định giá phải là số lẻ, tối thiểu là 3 người đối với Hội đồng định giá cấp huyện, tối thiểu là 5 người đối với Hội đồng định giá cấp tỉnh và ở Trung ương. Trường hợp cần thiết, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng định giá quyết định thành lập Tổ giúp việc Hội đồng.
Hoạt động của Hội đồng định giá tài sản
Hội đồng định giá hoạt động theo cơ chế tập thể. Cơ quan của người có thẩm quyền thành lập Hội đồng hoặc Chủ tịch Hội đồng phải đóng dấu vào các văn bản của Hội đồng và chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của Hội đồng.
Hội đồng định giá tiến hành định giá tài sản theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục định giá tài sản quy định tại Nghị định này và các quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự.
Hội đồng định giá chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ quy định tại Quyết định thành lập Hội đồng hoặc khi có Quyết định của người có thẩm quyền thành lập Hội đồng về việc chấm dứt hoạt động của Hội đồng.
Hỗ trợ đầu thu truyền hình số qua vệ tinh cho hộ nghèo, cận nghèo
Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 2451/QĐ-TTg ngày 27/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020.
Trong nhóm giải pháp về tài chính sửa đổi quy định: Việc sử dụng kinh phí từ Quỹ dịch vụ viễn thông công ích để hỗ trợ đầu thu truyền hình số thực hiện theo nguyên tắc hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất cho hộ nghèo, hộ cận nghèo đủ điều kiện hỗ trợ tại địa bàn thuộc vùng phủ sóng truyền hình số mặt đất; hỗ trợ đầu thu truyền hình số qua vệ tinh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo đủ điều kiện nhận hỗ trợ tại địa bàn thuộc vùng phủ sóng truyền hình tương tác mặt đất trước thời điểm ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất nhưng không thuộc vùng phủ sóng truyền hình số mặt đất.
Việc sử dụng kinh phí từ Quỹ dịch vụ viễn thông công ích để hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ khác của Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020 thực hiện theo Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Trước ngày 31/12/2018 các đài truyền hình Trung ương và địa phương kết thúc việc phát sóng tất cả các kênh chương trình truyền hình trên hạ tầng truyền dẫn, phát sóng truyền hình tương tự mặt đất tại các tỉnh còn lại thuộc nhóm III (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang) và các khu vực không nằm trong vùng phủ sóng của các trạm phát sóng truyền hình số/tương tự chính tại các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Ninh Bình, Bình Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Khánh Hòa.
Bổ sung mỏ đá vôi tỉnh Quảng Bình vào quy hoạch
Thủ tướng Chính phủ đồng ý bổ sung mỏ đá vôi xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình (29 ha) vào Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng ở Việt Nam đến năm 2020.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép hoạt động khoáng sản theo đúng quy định của Luật Khoáng sản.
Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh Đắk Lắk
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Theo đó, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) giai đoạn 2016 - 2020 đạt 8,5 - 9%/năm.
GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 60 - 60,5 triệu đồng, định hướng năm 2030 đạt 217 - 220 triệu đồng; tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 2016 - 2020 đạt 3.765 triệu USD, năm 2020 là 850 triệu USD và năm 2030 là 3.500 triệu USD.
Giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động còn khoảng 55% vào năm 2020, 38% năm 2030; mỗi năm giải quyết việc làm cho 27 - 28 nghìn lao động (trong đó, việc làm tăng thêm: 15 - 16 nghìn người). Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị 2,5 - 2,7% giai đoạn 2016 - 2020, 2,2 - 2,5% trong giai đoạn 2021 - 2030 và giảm tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn xuống còn 5%.
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 5% năm 2020; định hướng đến năm 2030 mỗi năm giảm bình quân từ 1- 2% (theo chuẩn nghèo hiện hành).
Xây dựng các tiểu vùng nông nghiệp
Về nông, lâm, thủy sản, phấn đấu đến năm 2020, cơ cấu toàn ngành nông, lâm, thủy sản trong tổng GRDP toàn tỉnh chiếm 38,5 - 39,5% và 19 - 20% vào năm 2030. Tốc độ tăng trưởng đạt bình quân 4,5 - 5%/năm giai đoạn 2016 - 2020 và duy trì 4 - 4,5%/năm giai đoạn 2021 - 2030.
Đồng thời chuyển dịch cơ cấu nông lâm thủy sản theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp (từ rừng trồng) và dịch vụ nông nghiệp, giảm tỷ trọng của ngành trồng trọt và khai thác rừng tự nhiên. Trong đó ngành chăn nuôi là hướng ưu tiên để tạo đột phá trong phát triển nông nghiệp gắn với quá trình tái cơ cấu nông nghiệp toàn tỉnh.
Hình thành và xây dựng các tiểu vùng nông nghiệp trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của tỉnh và lợi thế về các sản phẩm nông nghiệp chủ lực trên địa bàn gắn với công nghiệp chế biến. Phát triển toàn diện ngành nông lâm thủy sản nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, góp phần ổn định tăng trưởng, cân bằng môi trường, giữ gìn bảo vệ cảnh quan sinh thái.
Phát triển công nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại
Về phát triển công nghiệp, tỉnh tập trung phát triển sản xuất công nghiệp theo hướng sử dụng công nghệ hiện đại và thân thiện môi trường, tập trung các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, phát huy các lợi thế so sánh của địa phương, hình thành một số ngành công nghiệp mũi nhọn có sức cạnh tranh và mang lại giá trị gia tăng cao, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất giai đoạn 2016 - 2020 đạt 10 - 11%/năm; giai đoạn 2021 - 2030 khoảng 12 - 13%/năm. Quy mô giá trị sản xuất đến năm 2020 đạt 65 - 66 nghìn tỷ đồng.
Giai đoạn 2016 - 2020, khai thác và chế biến sâu nông sản, dệt sợi, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, điện, nước, phát triển công nghiệp phụ trợ. Sau năm 2020 tập trung khai thác chế biến nông sản chất lượng cao, vật liệu xây dựng cao cấp, chế tạo máy móc thiết bị, công nghiệp phụ trợ phục vụ xuất khẩu.
Bên cạnh đó hình thành cụm liên kết công nghiệp cho các ngành công nghiệp chủ lực. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ. Xây dựng thương hiệu sản phẩm công nghiệp đủ mạnh ở cấp độ khu vực và quốc tế, xúc tiến thị trường mới cho các sản phẩm công nghiệp chủ lực.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp chủ lực như công nghiệp chế biến nông - lâm sản, thực phẩm, đồ uống; công nghiệp khai thác khoáng sản; công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; công nghiệp luyện kim, cơ khí, điện tử; công nghiệp hoá chất, cao su, nhựa, phân bón...
Phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất khu vực dịch vụ giai đoạn 2016 - 2020 đạt 11 - 12%/năm, định hướng giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 12- 12,5%/năm. Cơ cấu khối dịch vụ đóng góp trong tổng GRDP cả tỉnh đạt 39 -40% năm 2020 và 34 - 35% năm 2030.
Về thương mại, phấn đấu giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng bình quân tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 18,5%/năm; giai đoạn 2021 - 2030 đạt 17%/năm. Xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng Trung tâm hội chợ triển lãm thương mại của tỉnh, phát triển hệ thống thương mại điện tử trong mua bán giao dịch, đẩy mạnh phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Sở giao dịch cà phê và hàng hóa Buôn Ma Thuột đạt hiệu quả cao. Phát triển hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại tại thành phố Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ, các thị trấn trên địa bàn toàn tỉnh...
Chuyển dịch và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ thúc đẩy phát triển sản xuất. Tập trung nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính, viễn thông; tư vấn và chuyển giao khoa học công nghệ.
Đến năm 2020, dự kiến có 1.129 ngàn lượt khách du lịch, trong đó 103 ngàn lượt khách quốc tế; năm 2030, có 2.863 ngàn lượt khách du lịch, trong đó 256 ngàn lượt khách quốc tế. Giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng bình quân du lịch đạt 15,05%/năm, giai đoạn 2021 - 2030 đạt 16,5%/năm. Ưu tiên đầu tư phát triển đối với cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch; phát triển nguồn nhân lực; bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch Đắk Lắk; xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù...
Điều chỉnh quy hoạch Quốc lộ 1
Thủ tướng Chính phủ vừa có ý kiến về việc điều chỉnh quy hoạch Quốc lộ 1 đoạn từ thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang đến huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đồng ý điều chỉnh quy hoạch Quốc lộ 1 đoạn từ thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang (Km2100 00) đến huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng (Km2118 600) từ 2 làn xe lên 4 làn xe cơ giới và 2 làn xe hỗn hợp. Riêng đoạn qua thị xã Ngã Bảy (Km2100 00 - Km2140 200) được quy hoạch theo phương án mở rộng tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp để giảm ùn tắc giao thông tại khu vực trung tâm thị xã Ngã Bảy.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng rà soát, cập nhật nhu cầu sử dụng đất của Quy hoạch nêu trên vào quy hoạch sử dụng đất của địa phương theo đúng quy định của pháp luật.
Phê duyệt chủ trương đầu tư dự án phòng chống HIV/AIDS
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án “Quỹ Toàn cầu phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 2018 - 2020” do Quỹ Toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét (Quỹ Toàn cầu) tài trợ.
Mục tiêu của Dự án góp phần thực hiện mục tiêu Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam, khống chế tỷ lệ lây nhiễm HIV trong quần thể dân cư nói chung dưới 0,3% và giảm tác động của HIV/AIDS đối với phát triển kinh tế, xã hội.
Kết quả chính của Dự án là các gói dịch vụ thiết yếu can thiệp dự phòng HIV tiếp tục được triển khai và mở rộng; các phương pháp xét nghiệm mới được triển khai mở rộng tại 32 tỉnh, thành phố. Phân cấp xét nghiệm khẳng định HIV được mở rộng đến tuyến huyện để tạo điều kiện chẩn đoán sớm hơn và kết nối với chăm sóc.
Điều trị ARV cho người lớn tại 32 tỉnh, thành phố có gánh nặng cao và trung bình và điều trị ARV cho trẻ em trên toàn quốc (khoảng 5.000 trẻ sơ sinh và trẻ em mỗi năm). Xét nghiệm CD4 cho bệnh nhân mới được thực hiện đến năm 2020. Xét nghiệm tải lượng virus được thực hiện thường quy. Việc sử dụng bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV và truyền thông về lợi ích của bảo hiểm y tế cho các khách hàng được tăng cường.
Phụ nữ mang thai ở các huyện có dịch HIV cao thuộc 32 tỉnh/thành phố được thực hiện xét nghiệm HIV. Tất cả phụ nữ mang thai được chẩn đoán nhiễm HIV trong quá trình chăm sóc thai nghén được kết nối đến OPC để được điều trị ARV lâu dài. Trẻ sơ sinh bị phơi nhiễm với HIV được chẩn đoán sớm.
Giám sát trọng điểm HIV kết hợp giám sát hành vi (HSS ) được triển khai nhằm cung cấp số liệu quan trọng trong lập kế hoạch ứng phó với HIV và theo dõi tác động của các can thiệp. Đánh giá nhanh, ước tính quy mô và lập bản đồ các điểm nóng của các nhóm đối tượng/quần thể chính được thực hiện.
Dự án được thực hiện tại các tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng, Điện Biên, An Giang, Sơn La, Cần Thơ, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Bà Rịa - Vũng tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Bắc Giang, Hải Dương, Thái Bình, Lai Châu, Yên Bái, Đồng Tháp, Khánh Hòa, Kiên Giang, Long An, Phú Thọ, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Tây Ninh, Bắc Ninh, Sóc Trăng, Cà Mau.
Bộ Y tế ký Cam kết viện trợ về Dự án nêu trên với Quỹ Toàn cầu và các bên liên quan; triển khai thực hiện Dự án theo đúng quy định, bảo đảm sử dụng viện trợ ODA hiệu quả, Dự án đạt mục tiêu đề ra.
Phó Thủ tướng yêu cầu quản lý, xử lý các hình thức thanh toán điện tử phi pháp
Chiều 15/3, Văn phòng Chính phủ đã phát đi văn bản của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ giao các cơ quan rà soát tình hình và đề xuất biện pháp quản lý, xử lý việc sử dụng các hình thức thanh toán trên internet liên quan tới các hành vi vi phạm pháp luật.
Chỉ đạo này của Phó Thủ tướng ban hành trên cơ sở ngày 13/3/2018 vừa qua, Báo điện tử Vnexpress.net đăng bài “Từ trình báo của người phụ nữ thôn quê bị lừa 55 triệu đồng qua chat Facebook, cảnh sát lần ra đường dây đánh bạc quy mô hàng nghìn tỷ đồng có bảo kê của sếp công an”, trong đó có nội dung về người chơi mua tiền ảo để đánh bạc.
Theo Văn phòng Chính phủ, qua theo dõi các phương tiện thông tin đại chúng và hoạt động internet thời gian qua, nổi lên hiện tượng tội phạm công nghệ cao, tội phạm trên internet sử dụng một số hình thức thanh toán mới để thanh toán cho các hoạt động phi pháp như đánh bạc, mua bán hàng hoá, dịch vụ phi pháp,...
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp và cơ quan liên quan rà soát, nghiên cứu, trong tháng 5/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình và đề xuất biện pháp quản lý, xử lý đối với việc sử dụng các hình thức thanh toán trên internet, đặc biệt là các hoạt động thanh toán liên quan tới các hành vi phạm pháp luật (trốn thuế, đánh bạc, rửa tiền,...).
Phối hợp quản lý nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký quyết định ban hành Quy chế phối hợp cấp phép, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam.
Quy chế này quy định về nguyên tắc, nội dung, phương thức và trách nhiệm phối hợp giữa các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Quốc phòng, Ngoại giao, Công an, Khoa học và Công nghệ (các Bộ) trong việc cấp phép, xem xét đề nghị thay đổi nội dung đã được cấp phép nhưng không thuộc trường hợp sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép; kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam.
Trong đó, nguyên tắc phối hợp phải bảo đảm hiệu quả, cụ thể trách nhiệm phối hợp của từng Bộ trong việc cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam; bảo đảm bí mật quốc gia, bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật; bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn trên biển, hải đảo.
Nội dung phối hợp gồm: Lấy ý kiến hồ sơ đề nghị cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam; xem xét việc thay đổi nội dung đã được cấp phép nhưng không thuộc trường hợp sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam; kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm trong quá trình nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam.