In bài viết

TKV thông tin chính thức về hai dự án Alumina

(Chinhphu.vn) – Ngày 31/3, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã có văn bản số 1424/TKV-VP cung cấp thông tin về một số nội dung đối với hai dự án Alumina do một số báo đăng tải. Dưới đây là nội dung thông tin chính thức từ TKV gửi Cổng thông tin điện tử Chính phủ.

31/03/2015 16:21

Ngày 28/3/2015, tại Hà Nội, Trung tâm Thiên nhiên và con người (Pan Nature) đã tổ chức buổi tọa đàm về bauxite, không có sự tham gia của Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (không được mời).

Ngày 29/3/2015 và 30/3/2015, trên một số báo, đặc biệt là Tuổi trẻ online có đăng một loạt bài trích nguồn từ cuộc tọa đàm nêu trên về một số nội dung liên quan đến hai dự án bauxite do Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) làm chủ đầu tư. Tập đoàn TKV xin gửi các thông tin chính thức liên quan đến 2 dự án khai thác bauxite-luyện Alumina tại Tân Rai-Lâm Đồng và Nhân Cơ-Đăk Nông như sau:

A. CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐẤU THẦU LỰA CHỌN NHÀ THẦU EPC NHÀ MÁY ALUMIN LÂM ĐỒNG.

Từ năm 2007 đến 2008, TKV đã chuẩn bị và tổ chức thành công việc đấu thầu rộng rãi quốc tế gói thầu EPC công trình nhà máy Alumina thuộc Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng theo đúng các quy định của Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Đấu thầu có liên quan, cụ thể như sau:

1. Quá trình chuẩn bị và tổ chức thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà thầu, ký kết hợp đồng EPC nhà máy Alumina Lâm Đồng.

Quá trình chuẩn bị và tổ chức đấu thầu được thực hiện theo trình tự như sau:

- Lập và phê duyệt kế hoạch đấu thầu, tổ chức đăng báo công khai kế hoạch đấu thầu được duyệt, trong đó hình thức lựa chọn nhà thầu được duyệt là đấu thầu rộng rãi quốc tế, phương thức đấu thầu hai giai đoạn, có sơ tuyển.

- Giai đoạn sơ tuyển:

Tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời quan tâm; đăng báo thư mời quan tâm; phát hành hồ sơ mời quan tâm; tổ chức đóng thầu, mở thầu, đánh giá các hồ sơ quan tâm theo đúng quy định của hồ sơ mời quan tâm; phê duyệt danh sách các nhà thầu vượt qua giai đoạn sơ tuyển.

Kết quả là có 07 nhà thầu nộp hồ sơ quan tâm cụ thể như sau: Nhà thầu ABB Switzerland Ltd (Thụy Sỹ); Nhà thầu liên danh JGC – TECHNIP (Nhật-Pháp); Nhà thầu MACMAHON CONTRUCTION (Úc); Nhà thầu MCC Overseas Ltd (Úc); 03 Nhà thầu Trung Quốc: Nhà thầu liên danh NFC-CNTIC, Nhà thầu CHALIECO, Nhà thầu liên danh giữa Tập đoàn Luyện kim Vân Nam(CYMG) và một số thành viên khác. Sau quá trình xét sơ tuyển thì có 03 nhà thầu vượt qua bước sơ tuyển là Nhà thầu Chalieco, Nhà thầu liên danh NFC-CNTIC, Nhà thầu liên danh giữa CYMG và một số thành viên khác.

- Đấu thầu giai đoạn 1:

Tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu giai đoạn 1; đăng báo mời thầu giai đoạn 1; phát hành hồ sơ mời thầu giai đoạn 1; tổ chức đóng thầu, mở thầu, đánh giá các hồ sơ dự thầu giai đoạn 1 theo đúng quy định của hồ sơ mời thầu giai đoạn 1; phê duyệt danh sách các nhà thầu có hồ sơ dự thầu đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu giai đoạn 1; tổ chức trao đổi kỹ thuật với các nhà thầu có hồ sơ dự thầu đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu giai đoạn 1 để chuẩn xác các yêu cầu kỹ thuật, làm cơ sở để xây dựng, hoàn thiện các chỉ dẫn và yêu cầu kỹ thuật cho giai đoạn 2.

Kết quả giai đoạn 1: có 03 nhà thầu đủ điều kiện để tiếp tục ở giai đoạn 2 gồm Nhà thầu Chalieco, Nhà thầu liên danh NFC-CNTIC, Nhà thầu liên danh giữa CYMG và một số thành viên khác.

- Đấu thầu giai đoạn 2:

Tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu giai đoạn 2; đăng báo mời thầu giai đoạn 2; phát hành hồ sơ mời thầu giai đoạn 2; tổ chức đóng thầu, mở thầu, đánh giá các hồ sơ dự thầu giai đoạn 2 theo đúng quy định của hồ sơ mời thầu giai đoạn 2; phê duyệt kết quả đấu thầu giai đoạn 2.

Kết quả giai đoạn 2: Nhà thầu Chalieco thắng thầu và được mời vào đàm phán thương thảo hoàn thiện hợp đồng EPC.

- Tổ chức đàm phán thương thảo hoàn thiện hợp đồng EPC, ký kết hợp đồng EPC với nhà thầu trúng thầu Chalieco.

Như vậy, TKV khẳng định việc tổ chức đấu thầu rộng rãi quốc tế gói thầu nêu trên hoàn toàn tuân thủ theo đúng các quy định của Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Đấu thầu có liên quan. Các nhà thầu tham gia có quốc tịch khác nhau như Thụy Sỹ, Nhật, Pháp, Úc và Trung Quốc, Nhà thầu thắng thầu là Chalieco của Trung Quốc.

2. Các nội dung liên quan đến lựa chọn công suất và công nghệ sản xuất Alumina:

a) Công suất của nhà máy Alumina:

Trong Hồ sơ mời thầu của dự án Tân Rai, công suất yêu cầu của Nhà máy Alumina là 600.000 tấn Alumina/năm.

Trong quá trình đấu thầu, Nhà thầu Chalieo Trung Quốc đã chào với công suất thiết kế 600.000 tấn Alumina/năm, theo đúng yêu cầu của Hồ sơ mời thầu. Trong quá trình đàm phán thương thảo Hợp đồng EPC, hai bên đã thống nhất công suất thiết kế là 650.000 tấn Alumina/năm và công suất bảo đảm vận hành là 630.000 tấn Alumina/năm.

Năm 2014, sau một năm vận hành, Nhà máy Alumina đã sản xuất được 485.000 tấn Alumina, đạt 75% công suất thiết kế và bằng 77% công suất bảo đảm vận hành. Năm 2015 TKV giao kế hoạch sản xuất cho Công ty Nhôm Lâm Đồng là 540.000 tấn Alumina, bằng 83% công suất thiết kế, Công ty đang phấn đấu để đạt sản lượng cao hơn kế hoạch giao. Dự kiến năm 2016 Nhà máy sẽ đạt công suất thiết kế.

Nhiều Nhà máy Alumina trên thế giới, sau khi đạt công suất thiết kế, đã tiếp tục cải tiến, hoàn thiện quy trình công nghệ, mỗi năm nâng thêm được sản lượng từ 3÷5% so với công suất thiết kế. Bằng cách này, sản lượng Alumina có thể tăng tới 20÷ 30% so với công suất thiết kế (chưa tính đầu tư mở rộng Nhà máy).

b)Lựa chọn công nghệ:

Đặc điểm quặng bauxite của Việt Nam

Trên thế giới chủ yếu có hai loại quặng bauxite: Gipxit và bauxite Diaspror.

- Quặng bauxite gipxit: Phân bố ở các nước Brazil, Úc, Surinam, Ghinê, Guana, Jamaica, Ấn Độ, Inđônêxia, Venezuela, Việt Nam (khu vực Tây Nguyên)… Quặng bauxite Gipxit có hàm lượng ôxit nhôm (Al2O3) thấp, từ 45÷50% (quặng tinh, sau khi đã tuyển rửa loại bỏ tạp chất), nhưng độ cứng của quặng nhỏ và hàm lượng ôxit silic SiO2 của quặng cũng thấp(3-5%). Việc tách lấy ôxit nhôm từ quặng này khá dễ dàng, chỉ cần nghiền nhỏ quặng (với chi phí bi nghiền thấp do quặng mềm), hòa tách quặng với dung dịch kiềm (NaOH) ở nhiệt độ và áp suất thấp (nhiệt độ 1050C, áp suất khí quyển; hoặc hiện đại hơn là nhiệt độ từ 140-1650C, áp suất từ 4-5 at để tăng hiệu suất thu hồi ôxit nhôm từ quặng), lọc lấy dung dịch chứa ôxit nhôm, đem kết tinh và nung ở nhiệt độ từ 900-10000C để loại bỏ nước, thu lấy ôxit nhôm. Công nghệ này gọi là công nghệ Bayer Châu Mỹ, giá thành sản xuất Alumina thấp, được áp dụng trong các nhà máy của ALCOA ở Tây Úc, nhà máy Alumina ở Jamaica, Brazil, Sơn Đông (Trung Quốc), Guinea... và cũng được áp dụng cho các nhà máy Alumina ở Tây Nguyên-Việt Nam.

- Quặng bauxite Diaspro: Phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, Hy lạp, Iran, Nam Tư, Rumani, ở phía Bắc Việt Nam cũng có một ít quặng này. Quặng này có hàm lượng ôxit nhôm (Al2O3) cao: 75÷85%, nhưng độ cứng của quặng lớn và hàm lượng ôxit silic SiO2 của quặng cũng lớn hơn nhiều so với quặng bauxite Gipxit.

Để sản xuất ra Alumina từ quặng bauxite Diaspro này, tùy thuộc hàm lượng ôxit silic có thể sử dụng hai công nghệ sau:

Đối với loại quặng bauxite Diaspro có hàm lượng ôxit silic thấp, áp dụng công nghệ Bayer Châu Âu: Sơ đồ công nghệ tương tự như công nghệ Bayer Châu Mỹ, nhưng chi phí nghiền quặng rất cao do quặng cứng, tiếp đó phải hòa tách quặng với dung dịch kiềm ở nhiệt độ và áp suất cũng rất cao (nhiệt độ từ 225-2400C, áp suất từ 25-40 at) đòi hỏi thiết bị có khả năng chịu áp lực rất lớn và tiêu tốn rất nhiều năng lượng, do vậy chi phí sản xuất Alumina từ quặng này cao hơn.

Đối với loại quặng bauxite Diaspro có hàm lượng ôxit silic cao, áp dụng công nghệ thiêu kết phức tạp và giá thành sản xuất Alumina còn cao hơn nữa: Trộn quặng bauxite với vôi CaCO3 và dung dịch xôđa Na2CO3, nghiền nhỏ rồi đưa vào lò thiêu kết nung ở nhiệt độ cao 1200 – 13000C, sản phẩm thiêu kết lại tiếp tục nghiền nhỏ, đưa vào thiết bị hoà tách lọc lấy dung dịch ôxit nhôm, nung ở nhiệt độ khoảng 10000C để lấy ôxit nhôm….

Trung Quốc với sản lượng Alumina sản xuất hàng năm lớn nhất thế giới (gần một nửa sản lượng của thế giới), Alumina được sản xuất bằng cả hai loại quặng: Quặng bauxite Diaspro khai thác trong nước và quặng Gipsit nhập khẩu từ các nước Indonexia, Úc …. Do vậy Trung Quốc có đầy đủ các công nghệ sản xuất Alumina: Bayer Châu Mỹ, Bayer Châu Âu, Thiêu kết.

Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng được TKV tiếp nhận từ Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam. Theo đó, công nghệ sản xuất Alumina ban đầu được đề cập trong dự án là công nghệ hòa tách ở áp suất khí quyển và ở nhiệt độ 1050C của Pechiney (Pháp).

Sau khi tiếp nhận Dự án nêu trên, TKV đã nghiên cứu và tìm hiểu một cách kỹ lưỡng và thấy rằng công nghệ hòa tách ở áp suất khí quyển và ở nhiệt độ 1050C của Pechiney (Pháp) tuy thiết bị đơn giản (chịu nhiệt độ và áp suất thấp), nhưng hiệu suất thu hồi ôxit nhôm thấp và là công nghệ độc quyền của Pechiney. Trên thế giới, để xử lý hòa tách quặng bauxite Gipxit tương tự như quặng bauxite của Việt Nam thì chỉ có 01 nhà máy duy nhất ở Ấn Độ đang sử dụng công nghệ này, tất cả các nhà máy còn lại ở các nước có công nghiệp Alumina-nhôm phát triển như Mỹ, Úc, Trung Quốc, … đều sử dụng công nghệ Bayer Châu Mỹ, hòa tách ở nhiệt độ 1450C và áp suất 4-5 at.

Trong điều kiện Việt Nam chưa bao giờ làm Alumina, do đó, để có thể tiến hành đấu thầu rộng rãi quốc tế, thì việc điều chỉnh từ công nghệ hạn hẹp của Pechiney (Pháp) sang công nghệ Bayer Châu Mỹ đang được sử dụng phổ biến trên thế giới là rất cần thiết.

Vì vậy TKV đã lập thủ tục và phê duyệt điều chỉnh Dự án tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng theo hướng sử dụng công nghệ hòa tách theo công nghệ Bayer Châu Mỹ. Những nội dung này TKV đã báo cáo Bộ Công Thương, Chính phủ, Quốc hội.   

c) Các chỉ tiêu tiêu hao công nghệ:

Khi lập Hồ sơ mời thầu cho dự án Tân Rai, tiêu hao quặng bauxite và các tiêu hao khác (nước, điện năng,…) để sản xuất 1 tấn Alumina được TKV xây dựng trên cơ sở thiết kế của Công ty Tư vấn Pechiney (Pháp) cho dự án Tân Rai, phù hợp với điều kiện quặng bauxite Gipxit của Việt Nam và các chỉ tiêu tiêu hao công nghệ của các nhà máy Alumina tiên tiến của thế giới sử dụng quặng bauxite Gipxit có tính chất tương tự.

Trong Hồ sơ dự thầu, Nhà thầu Chalieco đã chào các chỉ tiêu tiêu hao công nghệ phù hợp với yêu cầu của Hồ sơ mời thầu, một số chỉ tiêu còn thấp hơn (tiêu hao nước theo Chalieco là 3,84m3/tấn Alumina và theo Pechiney là 4,7m3/tấn Alumina; tiêu hao điện theo Chalieco là 250 kWh/tấn Alumina và theo Pechiney là 256 kWh/tấn Alumina...)

Trong quá trình thực hiện hợp đồng EPC, các chỉ tiêu công nghệ này đã được rà soát tính toán kiểm chứng cụ thể trong Thiết kế kỹ thuật nhà máy Alumina Vol.3 bởi Nhà thầu EPC Chalieco, Tư vấn quản lý dự án và TKV.

Quá trình thi công xây dựng, lắp đặt công trình đã được Nhà thầu EPC Chalieco, Tư vấn quản lý dự án và TKV quản lý chất lượng một cách nghiêm ngặt, tuân thủ các quy định hiện hành của Việt Nam cũng như các tiêu chuẩn nước ngoài được phép áp dụng.

Quá trình sát hạch tính năng toàn nhà máy Alumina năm 2013 đã chỉ rõ sự đáp ứng của các chỉ tiêu kỹ thuật này so với thực tế vận hành có tải toàn bộ công trình nhà máy Alumina.

d) Nhân lực và mức độ tự động hóa của công trình nhà máy Alumina:

Theo thiết kế công nghệ của nhà máy Alumina, toàn bộ các dòng vật liệu được luân chuyển trong các bình bồn, bơm, đường ống, … và được điều khiển hoàn toàn tự động thông qua 06 vị trí điều khiển tại khu vực và điều khiển trung tâm, có hệ thống camera giám sát quá trình, …

Tổng nhân lực hiện tại của Công ty TNHH MTV Nhôm Lâm Đồng-TKV (đơn vị do TKV giao quản lý vận hành công trình nhà máy Alumina) là 1450 người, trong đó lao động trực tiếp 984 người, phục vụ 278 người, quản lý 182 người. Nhà máy Alumina có 798 người lao động trực tiếp, chia 3 ca, mỗi ca 266 người. Mỏ và nhà máy tuyển có lao động trực tiếp 106 người, chia 3 ca mỗi ca khoảng 35 người.

e) Khử oxalate (các bon hữu cơ):

Việc này phụ thuộc vào chất lượng quặng bauxite tại mỗi dự án. Theo tính chất quặng, Nhà máy Alumina Lâm Đồng sau 4-5 năm vận hành mới phải xử lý, Nhà thầu Chalieco đã tính toán công nghệ khử oxalate tại Vol.3 TKKT. Dự án Nhân Cơ sau 2 năm sẽ xuất hiện oxalate nên đã được Nhà thầu Chalieo xem xét ngay trong TKKT, đã lập TKBVTC, đang thi công.

Đánh giá về công nghệ của Bộ KH&CN:

Bộ KH&CN đã Quyết định thành lập Hội đồng khoa học giám sát và đánh giá kết quả việc chuyển giao và ứng dụng công nghệ của hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ. Sau quá trình giám sát, Hội đồng đã nhận xét, đánh giá như sau:

Công nghệ khai thác mỏ: Công nghệ và thiết bị khai thác được lựa chọn là phù hợp với đặc điểm tự nhiên về địa chất, địa lý và thời tiết khí hậu của vùng bauxite Tây Nguyên cũng như quy mô sản lượng của nhà máy Alumina Tân Rai, kể cả khi cần nâng cao công suất, và yêu cầu về cải tạo phục hồi môi trường sau khai thác.

Công nghệ tuyển quặng bauxite: Công nghệ và thiết bị tuyển được lựa chọn là phù hợp đối với quặng bauxite laterit vùng Tây Nguyên. Các thông số công nghệ và chất lượng sản phẩm cơ bản đáp ứng yêu cầu cho công nghệ sản xuất Alumina bằng phương pháp Bayer. Có một số tồn tại trong quá trình chạy thử có tải nhưng đã được Chủ đầu tư và Nhà thầu khắc phục.

Công nghệ luyện Alumina: Căn cứ đặc điểm của bauxite Tây Nguyên, Dự án lựa chọn Công nghệ Bayer Châu Mỹ, hòa tách quặng tinh ở nhiệt độ 145OC và áp suất thấp là hợp lý. Hiện nay, đa số các nhà máy trên thế giới đều sử dụng phương pháp Bayer này. Công nghệ này khá phức tạp, được phân chia thành các khâu công nghệ riêng một cách phù hợp. Thực tế sản xuất thời gian qua tại dự án Tân Rai cho thấy công nghệ sản xuất Alumina áp dụng là hợp lý. Hiện tại chất lượng sản phẩm Alumina đã đạt theo cam kết của hợp đồng và được đánh giá là tương đương với sản phẩm Alumina của Úc và một số nước khác.

B.HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA HAI DỰ ÁN

Hiệu quả kinh tế của hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ đã được TKV tính toán, báo cáo các Bộ, Ngành, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Kết quả tính toán cho thấy, cả hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ đều có hiệu quả kinh tế, hoàn trả được vốn vay, đóng góp cho Ngân sách. Dự án Tân Rai lỗ kế hoạch 4 năm đầu, do phải trả nợ các khoản vay đến hạn và thời gian đầu dự án chưa đạt công suất thiết kế. Dự án Nhân Cơ lỗ 5 năm đầu, do cung độ vận tải sản phẩm Alumina xuống cảng biển xa hơn và hạ tầng khó khăn hơn. Chính vì vậy, việc năm 2015 và một vài năm tiếp theo, các khoản lỗ mang tính chất lỗ kế hoạch theo dự kiến là chuyện bình thường.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 13 đã thành lập Đoàn giám sát của UBTVQH về hiệu quả tổng thể về kinh tế, xã hội gắn với đảm bảo an ninh-quốc phòng của 02 dự án bô-xit Tân Rai và Nhân Cơ do TKV làm chủ đầu tư. Trên cơ sở kết quả giám sát của Đòan giám sát, ngày 23/6/2014 UBTV Quốc hội Khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 775/NQ-UBTVQH13, đánh giá việc triển khai thí điểm 2 dự án là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của các địa phương có tài nguyên khoáng sản, thúc đẩy phát triển toàn diện KT-XH ở khu vực địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Hiệu quả tổng hợp bước đầu của 2 dự án đã tác động lan tỏa và tích cực đến phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động tại các địa phương. Dự án đã tạo được sự đồng thuận và nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ tích cực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh Lâm Đồng và Đắk Nông.

Trong quá trình triển khai dự án đã chú trọng đến kết hợp giữa đảm bảo mục tiêu kinh tế bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và văn hóa truyển thống trên địa bàn. Chủ đầu tư hai dự án-TKV-đã cơ bản thực hiện đúng quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng. Bước đầu hai dự án đã có đóng góp cho ngân sách, khi đi vào hoạt động ổn định mỗi dự án sẽ giải quyết dược việc làm cho nhiều lao động tại hai tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông.

Thực tế từ ngày 01/10/2013 Dự án Tân Rai đã hòan thành công tác ĐTXD, chạy thử và đi vào vận hành thương mại. TKV đã giao Công ty Nhôm Lâm Đồng-TKV quản lý vận hành toàn bộ Dự án. Nhà thầu EPC Chalieo Trung Quốc đã bàn giao hạng mục Nhà máy Alumina cho TKV và đã rút hầu hết nhân lực về nước, chỉ để lại bộ phận nhỏ làm công tác nghiệm thu, thanh toán và bảo hành.

Năm 2013 Công ty Nhôm Lâm Đồng-TKV sản xuất được 208.000 tấn Alumina. Năm 2014 sản xuất được 485.000 tấn Alumina, đạt 75 % công suất thiết kế. Sau hơn 1 năm tổ chức vận hành NM Alumina của dự án, CBCNV Công ty Nhôm Lâm Đồng-TKV về cơ bản đã nắm được công nghệ, vận hành Nhà máy ổn định, linh hoạt sửa chữa và khắc phục các sự cố trong quá trình vận hành ban đầu, tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Sản lượng sản xuất ngày càng ổn định và tăng dần, chất lượng sản phẩm Alumina đã đạt theo tiêu chuẩn thiết kế (hàm lượng Al2O3đạt 99,0% vượt thiết kế là 98,6%); tiêu hao nguyên vật liệu để sản xuất Alumina cơ bản đã đạt theo thiết kế.

Phần lớn sản phẩm Alumina của Nhà máy được xuất khẩu, hiện TKV đã ký hợp đồng bán Alumina với 11 khách hàng từ các nước Thuỵ Sỹ, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông… Sản lượng Alumina xuất khẩu trong năm 2014 là 490.000 tấn, đem lại nguồn thu ngoại tệ xấp xỉ 160 triệu USD. Giá bán Alumina đầu năm 2014 ở mức 300÷310USD/tấn, cuối năm ở mức 350÷360 USD/tấn, bình quân cả năm 2014 đạt: 326,5 USD/tấn, cao hơn so với tính toán của dự án cho năm 2014 là 325 USD/tấn. Sản phẩm Alumina do Nhà máy sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó, không có hàng tồn kho.

Dự án thí điểm bước đầu đã có kết quả tích cực, doanh thu của Dự án năm 2014 ước đạt 3.500 tỷ đồng; Nộp ngân sách địa phương 211 tỷ đồng (luỹ kế đến hết 2014 đã nộp ngân sách địa phương 338 tỷ đồng). TKV đã và đang thực hiện đúng các cam kết với địa phương, như đào tạo nghề và tuyển dụng trực tiếp trên 1.200 công nhân công nghiệp (lao động địa phương), tạo việc làm ổn định cho khoảng 12.000 lao động liên quan, nâng cao đời sống người dân khu vực Dự án, đóng góp đáng kể cho GDP của tỉnh Lâm Đồng.

Hơn 1.450 lao động của Công ty nhôm Lâm Đồng có việc làm ổn định và thu nhập bình quân 6,6 triệu đồng/người/tháng (năm 2015 dự kiến 7,4 triệu đồng/người/tháng). Công ty đã thực hiện tốt công tác chăm lo đời sống và điều kiện sinh hoạt đi lại, nhà ở, ăn công nghiệp… cho cán bộ công nhân.

Dự án Nhà máy sản xuất Alumina Nhân Cơ hiện đã hoàn thành trên 90% khối lượng công việc ĐTXD. Tổng giá trị thực hiện ĐTXD lũy kế từ khi khởi công đến cuối tháng 03/2015 ước khoảng 13.782,8 tỷ đồng. Dự kiến cuối năm 2015 dự án sẽ hoàn thành công tác ĐTXD, đi vào vận hành có sản phẩm Alumina.